1. Tổng quan
Tuyến giáp là một tuyến nội tiết nằm ở phía trước và bên dưới quả táo. Nó có hình dạng giống như một con bướm và thường không thể sờ thấy được. Ung thư tuyến giáp là khối u ác tính có nguồn gốc từ tuyến giáp và có khả năng lây lan sang các bộ phận khác của cơ thể (di căn ác tính). Đây là khối u ác tính phổ biến nhất trong hệ thống nội tiết. Hầu hết các bệnh ung thư tuyến giáp đều không có tính ác tính cao và hiếm khi đe dọa tính mạng.
Nói chung, ung thư tuyến giáp được điều trị bằng phẫu thuật tuyến giáp và vú. Một số bệnh viện không có phẫu thuật chuyên khoa tuyến giáp và vú nên có thể điều trị bằng phẫu thuật tổng quát hoặc phẫu thuật ung thư. Nếu kèm theo tình trạng tiết hormone tuyến giáp bất thường, chẳng hạn như tăng nhịp tim, sụt cân, lồi mắt, v.v. do cường giáp, cũng có thể cần phải điều trị nội tiết.
Ung thư tuyến giáp có thể được phân loại là:
1. Ung thư biểu mô không biệt hóa:
Chiếm 3% đến 8% trong số tất cả các bệnh ung thư tuyến giáp, bệnh này phổ biến hơn ở người lớn tuổi và phổ biến hơn một chút ở phụ nữ.
Nó được đặc trưng bởi sự phát triển nhanh chóng, đau đớn và mức độ ác tính cao. Khoảng 80% bệnh nhân tử vong trong vòng 1 năm sau khi chẩn đoán.
2. Ung thư biểu mô biệt hóa:
Ung thư nhú: chiếm 70% đến 90% trong số tất cả các bệnh ung thư tuyến giáp. Bệnh này thường xảy ra ở độ tuổi từ 30 đến 60. Bệnh phổ biến hơn ở phụ nữ và có thể có tiền sử gia đình. Đối với những bệnh nhân còn trẻ, có khối u nhỏ và chưa di căn thì hiệu quả điều trị rất tốt.
Ung thư biểu mô nang: chiếm 10% đến 15% trong tất cả các bệnh ung thư tuyến giáp và phổ biến hơn ở người già và người ở vùng thiếu iốt. Mức độ ác tính cao hơn một chút so với ung thư biểu mô nhú.
Ung thư tủy: chiếm 6% đến 8% trong tất cả các bệnh ung thư tuyến giáp. Nó có thể sản xuất calcitonin và có thể đo được trong máu. Nó có thể có tiền sử gia đình và ác tính hơn.
Nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Nguyên nhân gây ung thư tuyến giáp vẫn chưa được hiểu đầy đủ. Các yếu tố nguy cơ có thể bao gồm:
Tiền sử tiếp xúc với bức xạ ở đầu và cổ hoặc tiếp xúc với bụi phóng xạ khi còn nhỏ
Có tiền sử xạ trị toàn thân
Có tiền sử hoặc tiền sử gia đình mắc bệnh ung thư tuyến giáp
Lượng iốt không đủ hoặc quá mức, phạm vi tối ưu là trung bình iốt trong nước tiểu 100 ~ 199μg/L
Giới tính: Phụ nữ dễ mắc bệnh này hơn nam giới
Tiếp xúc thường xuyên với bức xạ ion hóa
2. Triệu chứng
Hầu hết các bệnh ung thư tuyến giáp không gây ra bất kỳ dấu hiệu hoặc triệu chứng sớm nào trong bệnh. Khi ung thư tuyến giáp phát triển, nó có thể gây ra:
Một khối u (nốt) có thể sờ thấy qua da cổ
Đường viền cổ áo sơ mi vừa vặn của tôi có cảm giác quá chật
Thay đổi giọng nói, bao gồm cả trở nên khàn giọng
khó nuốt
sưng hạch bạch huyết ở cổ
Đau cổ và họng
Có thể kèm theo đỏ bừng, nhịp tim nhanh và tiêu chảy khó chữa
Khi ung thư tuyến giáp di căn, một loạt các triệu chứng của các cơ quan khác ở người có thể xuất hiện, chẳng hạn như nhức đầu, giảm thị lực, ho, ho ra máu, đau ngực, đau bụng, vàng da (vàng mắt, da và nước tiểu) và đau xương.
3. Kiểm tra
(1) Khám thực thể
Nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sẽ kiểm tra cổ và sờ nắn tuyến giáp để tìm những thay đổi như cục u. Họ cũng có thể hỏi về các yếu tố nguy cơ, chẳng hạn như việc tiếp xúc với bức xạ trước đó và tiền sử gia đình mắc bệnh ung thư tuyến giáp.
(2) Kiểm tra trong phòng thí nghiệm
1) Khám định kỳ: bao gồm xét nghiệm máu định kỳ và xét nghiệm chức năng gan thận
2) Xét nghiệm hormone tuyến giáp: để biết chức năng tuyến giáp có bình thường hay không
3) Phát hiện tự kháng thể tuyến giáp: có thể được sử dụng để theo dõi xem khối u của bệnh nhân tái phát hay di căn sau phẫu thuật
(3) Kiểm tra hình ảnh
1) Kiểm tra siêu âm: Có thể dễ dàng phát hiện các nốt, số lượng nốt và mối quan hệ giữa các nốt và các mô xung quanh cũng có thể được nhìn thấy.
2) Chụp CT: có thể dùng để đánh giá sự xâm lấn của ung thư tuyến giáp đang phát triển nhanh vào các cơ quan khác.
3) Chụp ảnh hạt nhân phóng xạ tuyến giáp: Thông thường, kiểm tra chất phóng xạ 131I được thực hiện sau phẫu thuật để xác định kích thước và chức năng của tuyến giáp còn lại.
4. Chẩn đoán
Chẩn đoán ung thư tuyến giáp dựa vào bằng chứng bệnh lý (đặc biệt là xét nghiệm bệnh lý sau phẫu thuật) Chẩn đoán trước phẫu thuật chủ yếu dựa vào chọc hút bằng kim nhỏ hoặc chọc hút bằng kim thô dưới hướng dẫn siêu âm. Báo cáo chọc hút tế bào bằng kim nhỏ tuyến giáp được sử dụng để đánh giá nguy cơ ác tính, được chia thành 5 cấp độ:
Độ 1 là tổn thương lành tính;
Độ 2 là tổn thương không điển hình hoặc tổn thương nang trứng;
Độ 3 là u nang hoặc nghi ngờ u nang;
Độ 4 nghi ngờ ác tính;
Độ 5 là ác tính.
Trong đó, độ 1 đến 3 là xu hướng lành tính và độ 4 đến 5 là xu hướng ác tính.
Tuy nhiên, vẫn có khả năng nhất định chọc hút tuyến giáp bằng kim nhỏ không phù hợp với bệnh lý sau phẫu thuật và không phải là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán.
Các giai đoạn ung thư tuyến giáp:
Giai đoạn 1: Khối u ác tính chỉ được tìm thấy ở tuyến giáp và có thể tích từ 2 cm khối trở xuống.
Giai đoạn 2: Khối u ác tính chỉ được tìm thấy ở tuyến giáp và thể tích của nó lớn hơn 2 cm khối nhưng nhỏ hơn 4 cm khối.
Giai đoạn III: Khối u ác tính có các triệu chứng sau: chỉ tìm thấy ở vùng tuyến giáp và có thể tích vượt quá 4 phân khối; khối u xuất hiện ở các bộ phận khác ngoài tuyến giáp, chẳng hạn như cổ họng hoặc hạch bạch huyết;
Giai đoạn 4: Đây là giai đoạn nghiêm trọng nhất của ung thư tuyến giáp. Tế bào khối u đã di căn.
5. Điều trị
(1) Điều trị bằng thuốc nhắm mục tiêu: Các loại thuốc thường được sử dụng bao gồm dabrafenib, v.v., có thể ức chế sự phát triển của khối u và phù hợp với những bệnh nhân ung thư tuyến giáp biệt hóa tiến triển không hiệu quả trong điều trị bằng chất phóng xạ 131I. Chúng có thể gây ra các phản ứng bất lợi như phát ban, tiêu chảy, và tăng huyết áp.
(2) Xạ trị: Thích hợp cho ung thư tuyến giáp thể tuỷ và ung thư anaplastic, và thường được sử dụng sau phẫu thuật.
(3) Hóa trị: Các loại thuốc thường được sử dụng bao gồm paclitaxel, carboplatin, v.v., phù hợp với bệnh ung thư tuyến giáp anaplastic có thể xảy ra.
(4) Điều trị bằng phẫu thuật: Các phương pháp phẫu thuật khác nhau được lựa chọn cho các bệnh ung thư tuyến giáp khác nhau.
Ung thư biểu mô nhú: Chỉ có thể cắt bỏ thùy tuyến hoặc cắt bỏ toàn bộ tuyến giáp và có thể thực hiện bóc tách hạch nếu thích hợp.
Ung thư biểu mô nang: Tương tự như ung thư biểu mô nhú, tế bào ung thư di căn xa được điều trị bằng 131I.
Ung thư biểu mô tuỷ: Cắt tuyến giáp toàn bộ hoặc gần toàn bộ nên được thực hiện cùng với bóc tách hạch.
Ung thư không biệt hóa: Khi loại ung thư này được chẩn đoán, ung thư đã di căn đến những nơi xa và không thể loại bỏ hoàn toàn bằng phẫu thuật, điều này cũng có thể khiến các tế bào ung thư lan rộng. Một số trường hợp có phạm vi truyền nhỏ có thể được cắt bỏ hoàn toàn.
Ung thư tuyến giáp dạng nhú rất nhỏ (ung thư biểu mô tế bào nhú) có nguy cơ phát triển và lan rộng thấp nên có thể không cần điều trị ngay lập tức. Ngoài phẫu thuật hoặc các phương pháp điều trị khác, hãy cân nhắc theo dõi chặt chẽ những thay đổi trong tình trạng ung thư của bạn. Các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe có thể khuyên bệnh nhân nên xét nghiệm máu và siêu âm cổ một hoặc hai lần một năm. Đối với một số người, ung thư có thể không bao giờ tiến triển và không cần điều trị.
6. Phòng ngừa
Về việc tiếp xúc với bức xạ có thể gây ung thư tuyến giáp: bạn nên tránh tiếp xúc lâu với bức xạ và làm theo hướng dẫn của bác sĩ để bảo vệ. Làm thế nào để ngăn chặn
Đối với những người có tiền sử gia đình mắc bệnh ung thư tuyến giáp: nên khám tuyến giáp hàng năm để phát hiện sớm và bảo vệ sớm.
Chú ý bỏ thuốc lá và uống rượu hàng ngày, đi ngủ sớm và dậy sớm, tập thể dục nhiều hơn, nâng cao khả năng miễn dịch của cơ thể.
Nếu quý khách có bất kỳ câu hỏi hay thắc mắc liên quan đến phương pháp điều trị cần tư vấn, quý khách có thể liên hệ với chúng tôi thông qua Hotline, Email hoặc tư vấn online trực tiếp. Ngoài ra, quý khách cũng cũng có thể đặt lịch khám trực tiếp tại Bệnh viện JingKai Trường Sa, để được tư vấn bởi các bác sĩ, chuyên gia giàu kinh nghiệm của chúng tôi..